Quê hương Đôn Thư trong lòng Thanh Oai - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Phía Bắc giáp 2 làng Kim Châu và Kim Thành, Nam giáp làng Chuông (Phương Trung), Đông giáp làng Đỗ Động, Tây giáp làng Văn La thuộc huyện Chương Mỹ. Hiện tại, làng Đôn Thư có hơn 1000 hộ gia đình với trên 3500 nhân khẩu ở 10 xóm, phân thành 4 thôn: Đoàn Kết, Ba Đình, Dũng Tiến, Đồng Tâm với tổng diện tích tự nhiên là 220,26 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 112,74 ha.
Chưa ai biết hai chữ Đôn Thư có tự bao giờ, nhưng theo trên bài minh quả chuông Chùa Đôn Thư đúc thời vua Lê Hy Tông - Chính Hòa (1680-1705) thì cái tên ĐÔN THƯ đã có. Đôi câu đối ở Đình làng nhắc đến mô tả cảnh làng “Ngân Phố hà niên, thiên tác hợp; Liên Đàm vạn cổ, địa trung linh” gợi nhớ đến “Phố cá Ngần” ngày nào tấp nập, Đầm Sen xưa tỏa ngát hương thơm.
Quê hương Đôn thư ngày nay - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Ngày nay, nhiều người chỉ còn nhớ lại tên xóm xưa cũng có gì đấy mang dáng văn vẻ như: Xóm Bến (xóm 1) Thư trạch Hầu (xóm 3), Khánh Trạch (xóm 4), Cổ Thư Viên (xóm 5), Trung Hòa (xóm 6), Cổ Thư (xóm 7)..... hay tên các gò đất hiện nay còn như: gò Ông Voi (gần Quán Vua), gò Đống Trạc, Đống Sung, Gò Nghè, Ngòi Bút, gò Nghiên, Roi Hổ, Hoàng Xà ....
Làng Đôn Thư có Bãi bồi sông Đáy màu mỡ, những cánh đồng ghi dấu ấn một thời với các cái tên ngồ ngộ: Thượng Chòi, Hạ Chòi, Lăng, Khai Sơn, Đội Vua, Sổ, Đìa Ngang, Sông Ý, Khoang, Chằm, Dinh, Chún ...
Theo một một số tài liệu sử sách ghi lại thì vùng đất Đôn Thư xưa thuộc trang Thời Trung, Sơn Nam thừa tuyên. Thời Hậu Lê là xã Đôn Thư huyện Thanh Oai, Trấn Sơn Nam Thượng. Thời Nguyễn thuộc tổng Thì Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Trước cách mạng 1945 thuộc tổng Phương Trung, huyện Thanh Oai, thời kỳ kháng chiến chống Pháp thuộc xã Kim An, huyện Liên Nam, đến ngày nay thuộc xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Cuộc sống làng nghề vót vòng nón - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Nếu bạn là người quen sống gọn gàng, ngăn nắp, hẳn sẽ thấy bề bộn con mắt lắm. Chắc ở nhà người làm vòng cái, bạn đã có cảm giác này rồi. Giờ ở nhà người làm vòng con, cảm giác ấy có lẽ càng rõ hơn. Vì ngoài đống vòng đã vót, đã chẻ phơi ngoài sân, còn nứa nguyên liệu để ngổn ngang, lại còn đống tướp vòng ngồn ngộn chắn lối đi... Muốn vào nhà, bạn đừng ngần ngại, chịu khó tạm để đôi giày cao gót hàng hiệu mới mua ngoài sân, nhón chân bước qua những thứ ấy. Kẻo vô tình dẫm phải một cái mấu hay mẩu nứa nhỏ vương vãi, có khi vừa hỏng giày, vừa té, bẩn cả chiếc áo đúng mốt, chiếc quần jin Mĩ màu lam, bộ trang phục đang tôn thêm vẻ đẹp hình thể chuẩn như người mẫu của bạn, thì oan gia. Nhưng xin bạn đừng phàn nàn nhé, nhà làm nghề mà. Giống kiểu người làm nghề vẽ thì nhà đầy những mực, những phẩm, những sơn, những giấy, những khung...ấy...
Như đã nói ở trên, vòng con làm bằng nứa, là loại nguyên liệu của rừng, nên người làm vòng con phải mua nứa. Hoặc muốn đỡ tiền mua thì phải lên rừng khai thác (hồi những năm 80 trở về trước). Việc này cũng có cái vất vả riêng. Trước đây, để có nứa làm vòng, người ta phải đi rất xa, cơm hàng cháo chợ, có khi hàng tháng trời mới mang được nứa về. Bây giờ thì thuận tiện hơn, người bán nứa nhiều khi mang đến phục vụ tận nơi. Thế là lại hình thành những cái chợ nứa nho nhỏ, rộn lên một lúc mỗi buổi chiều. Người làm nghề chỉ việc mang nứa về, pha vòng, vót vòng, tương tự như người làm vòng cái. Chỉ khác là công việc có phần nhẹ nhàng hơn, đơn giản hơn, nhưng lại có phần tỉ mỉ hơn, tinh vi hơn.
Thế hệ vót vòng kinh nghiệm hàng chục năm - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Đấy là nói ở góc độ người làm nghề, thâm niên mấy chục năm, trình độ cao chót vót. Còn với kẻ ngoại đạo như tôi và bạn thì cứ gọi là "lác mắt", nhanh nhanh lên mà "nghiêng mình kính cẩn". Vì nó cũng đòi hỏi sự khéo léo mang tính nghệ thuật, chứ không phải chuyện chơi. Vót vòng thì hai tay phải phối hợp nhịp nhàng sao đó, để cho sợi vòng đạt tiêu chuẩn tròn hơn cả hình tròn, nhẵn lì trên cả nhẵn lì, mới mong đáp ứng được yêu cầu của người làm nón đẹp. Sợi vòng tròn chỉ to hơn loại tăm tre nhọn hai đầu một ít. Dao lia không cẩn thận, bập sâu chút xíu là sợi vòng đi tong, thành đồ phế phẩm ngay. Bạn chưa học lí thuyết, đừng tưởng đơn giản mà cố thử làm.
Không khéo thì lưỡi dao sắc như nước, sẽ dễ dàng làm bật máu hồng nơi bàn tay ngà ngọc của bạn hoặc làm hỏng cả sợi vòng. Khá hơn thì vót được, nhưng sợi vòng thành phẩm, thử khoanh lại mà xem, nó thành cái hình gì gì ấy, chứ không phải hình tròn. Nhìn cái hình thù lạ lùng ấy, bạn cứ hồn nhiên cười ngặt, cười nghẹo, tiếng cười ấm áp, trong trẻo, dễ thương làm sao!
Làng nghề vẫn giữ nghề - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Vì vậy, người vót vòng cũng phải dùng đến cái "đê" nhưng vết khứa nhỏ hơn cái "đê" của người làm vòng cái. Còn chẻ vòng thì phải cố gắng sao cho đều, đừng có sợi mỏng, sợi dày, đầu to, đầu nhỏ, người mua có quyền chê mà người bán không nói lại được đâu. Loại vòng này, chỉ có đưa vào bếp...Cho nên, có bí quyết gì thì "lớp cha trước, lớp con sau", người làm vòng con truyền cho nhau ngay từ lúc còn bé tí, mới tập tọng học nghề. Vì vậy, ở làng Đôn Thư, già, trẻ, gái, trai, “nam phụ lão ấu” đều làm nghề tốt. Các cháu bé độ 7 – 8 tuổi đã vót vòng nhoay nhoáy. Có cụ già 70 – 80 vẫn pha vòng choang choác, điếu cày vẫn rít giòn tan, sảng khoái mỗi lúc ngừng tay dao… Chẳng thế mà, người làng Tràng Xuân, dù giỏi hơn các nơi khác, cũng chỉ làm vòng cái bằng nứa?...
Vót vòng, chẻ vòng chưa phải là công đoạn cuối. Khi sợi vòng "tròn" đã tròn, nhẵn rồi, sợi vòng "chẻ" đã đều rồi, người làm vòng vẫn chưa hài lòng. Họ còn phải xát vòng, bằng cách ngồi trên ghế cao, dùng hai chân chà đi, chà lại một bó vòng, khiến cho sợi nào, sợi nấy không còn mảy may một chút lươm tươm, dù chỉ tí xíu. Bây giờ thì, những người lao động thông minh làng Đôn Thư đã sáng chế ra chiếc máy xát vòng, làm thay sức người rất có hiệu quả rồi… Và sau khi xát xong, người làm vòng con cũng phải uốn vòng như làm vòng cái.
Nguyên liệu tre làm vòng - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Chỉ khác là không phải "giáp vòng" mà chỉ cần làm cho sợi vòng cong cong. Để khi người làm nón "bứt vòng", khoanh lại, ướm vào khuôn nón, sợi vòng đã tròn vành vạnh. Chưa xong đâu. Để đến tay người làm nón, họ còn phải đếm vòng thành từng "cữ", mỗi "cữ" khoảng từ 25 đến 30 "cỗ" (số lượng vòng con đủ cho một cái nón). Lúc này, nghệ nhân vòng mới yên tâm, là vòng đã đủ tiêu chuẩn mang đi chợ bán được rồi. Hoặc có khách xa đến mua thì bình tĩnh, thong thả mà xuất hàng. Công việc tỉ mỉ như vậy đấy. Nếu bạn là người hay nóng vội, hay sốt ruột, chắc chẳng yêu được cái nghề này. Nhưng tôi dám chắc cả mười phần rằng, nữ tính, thông minh và ham hiểu biết như bạn, muốn theo nghề, học thạo việc là mê nghề, giỏi nghề ngay thôi mà...
Đến làng Đôn Thư, bạn sẽ được nghe rất nhiều từ mới của làng nghề, có tra từ điển suốt ngày cũng chẳng ra. Bạn chuẩn bị giấy bút mà ghi, có thể bổ sung vào vốn ngôn ngữ của bạn nhiều điều hay đấy. Chẳng hạn, cây tre cụt ngọn người ta gọi là cây tre "bường" (liên quan đến sự tích "ông Cộc, ông Dài), cái "đê" gọi là cái "mũ tay", người con trai nhanh nhẹn, xốc vác được ví như "con dao pha". Rồi những là: đi tre, đi nứa, lãi, lòng mặt, bọng, tướp, chuồng mấu, cữ, cỗ...v.v.
Và từ này thì đố bạn nghĩa là gì: "đi ngồi"?. Sao lại thế? Nghề làm vòng nón không "đi đứng" được hay sao mà phải "đi ngồi"? Mà "đi ngồi" thì chắc chẳng đi xa được đâu nhỉ? Còn vừa "đi" vừa "ngồi", thì đến thánh cũng phải chào thua! Nếu bạn hiểu "đi ngồi" trong trường nghĩa với "đi đứng" như vậy, sẽ "hoàn toàn không chính xác", theo cách nói của những người "em - si" ở một số chương trình truyền hình, có thể bạn đã biết. Xin "bật mí" cắt nghĩa từ "đi ngồi" để bạn khỏi sốt ruột nhé! Ở Đôn Thư, tính tập thể, cộng đồng rất cao. Vì toàn "trong họ ngoài làng", "phi nội tắc ngoại" cả.
Những sợi vòng vàng óng và thế hệ con cháu thành tài Đôn Thư - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Cho nên, người ta đến chơi thăm nhau, nhiều khi mang theo cả công việc, vừa làm vừa trò chuyện, hỏi han nhau, cứ râm ran cả lên, vui như tết, tận dụng thời gian không phải "một công đôi việc" mà là "một công đa việc" ấy chứ. Hoặc giả, những người hàng xóm, mang việc sang nhà nhau, vừa làm vừa xem ti vi, bình luận, tán chuyện rôm rả. Thôi thì đủ thứ, "dưa lê, dưa hấu", trên trời, dưới đất, nước ngoài, nước trong...hay lắm. Lúc hăng lên lại còn thách đố, thi tài làm nhanh, làm khéo với nhau. Thật là hữu ích, vừa vui lại vừa được việc, "miệng nói tay làm" mà. Vì thế, vào nhà của người làm vòng Đôn Thư, có thể bạn sẽ được xem những màn trình diễn nghệ thuật miễn phí, rất sinh động, hấp dẫn, với đủ cả vũ đạo, âm thanh, ngôn ngữ đa dạng. Đặc thù của nghề vòng nón có thể khiến người lao động "vừa làm vừa chơi", vừa biểu diễn nghệ thuật như vậy. Lại nữa: Nhiều cháu học sinh ngày trước, nhà nghèo, có khi vừa vót vòng, làm nón vừa học.
Các cháu ấy, "thuở còn thơ ngày "một" buổi đến trường", thời gian còn lại, ở nhà cũng phải "vừa làm vừa học" theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Thế mà khối cháu thành đạt, trưởng thành làm ông nọ, bà kia đấy. Khi các thao tác nghề đã trở thành kĩ năng, kĩ xảo thì đó là chuyện bình thường. Và dân Đôn Thư gọi "đi ngồi" là vậy. Do đó, có một thực tế là, nhiều cụ già có con trưởng thành, giàu sang, sung sướng, định cư ở thành phố, đón cha mẹ ra để phụng dưỡng, báo hiếu, được vài ngày đã sốt sồn sột, nằng nặc đòi về quê. Vì " ở "tỉnh", hàng ngày, con cháu đi làm, đi học hết, nó nhốt mình trong nhà, tù cẳng, thui thủi một mình, chứ sung sướng cái nỗi gì. Ở nhà còn có họ hàng, làng xóm, ra vào, câu chuyện, câu trò chia sẻ vui, buồn, sướng, khổ, tắt lửa tối đèn có nhau". Thế mới biết, trong cuộc sống, nhiều khi nhu cầu tinh thần, tình cảm cộng đồng còn quan trọng hơn cả những thứ của cải, vật chất cao sang!…
Vinh dự Đôn Thư đón nhận danh hiệu Làng nghề - Làng văn hóa - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Cũng do đặc thù công việc, mà có người cho rằng, nghề vòng nón quá nhàn nhã, "mưa không đến mặt, nắng chẳng đến đầu", "ngồi mát ăn bát vàng". Thế cho nên, ở Đôn Thư, vẫn truyền tụng câu thành ngữ dân gian "thứ nhất làm quan, thứ nhì nan nón". Thì ra, trong quan niệm của người Đôn Thư từ xưa, nghề vòng nón chỉ thua quan một chút thôi mà. Thật tự hào, kiêu hãnh, rất tự tin và chứa chan chất lãng mạn!... Nhân đây, xin phép tác giả và người giữ bản quyền, mời bạn thưởng thức 2 bài thơ sau, để cùng hòa chung niềm vui và niềm tự hào giản dị nhưng sâu sắc của những nhà thơ cao niên, những người dân làng nghề Đôn Thư, thắm thiết với quê hương, với "nghề quí" của làng:
Bài 1: NGHỀ VÒNG NÓN ĐÔN THƯ
Thời xưa có nói "Nhất làm quan..."
Đứng thứ nhì là "Nghệ nón, nan"
Mỗi tháng: sáu phiên - tiền lợi nhuận,
Mươi ngày: hai bữa - tiệc liên hoan.
Gạo ngon hàng yến, đong đầy tải
Thịt béo từng cân, xách nặng làn.
Nghề quí đời đời truyền để lại...
Nhà nhà hưởng lộc được thanh nhàn.
PHẠM VŨ QUÍ
Bài 2: QUÊ HƯƠNG
Bên dòng sông Đáy, ven đê
Chợ Chiều nghiêng nón đi về có nhau
Thủy chung, nhân hậu bền lâu
Đôn Thư ta đó - thấm sâu lòng người...
Tha hương từ thuở thiếu thời,
Yêu quê, tôi nhớ từng lời báo đăng:
"Làng khoa bảng, đất danh nhân..."
Sáng ngời tâm trí, càng tăng tinh thần:
Trung với Đảng, hiếu với dân,
Ân tình - xin gửi mấy vần thơ xuân ...
Đến đây, chắc bạn đã hiểu và có thể tự điền thêm vào dấu chấm lửng hai chữ "NAN NÓN", cho hoàn chỉnh câu thành ngữ viết dở đặt làm nhan đề tác phẩm. Bạn đang hí hoáy, cẩn thận dùng bút mực đỏ, tô đậm dòng chữ "THỨ NHẤT LÀM QUAN, THỨ NHÌ NAN NÓN" bằng thứ chữ in hoa rõ ràng và nắn nót chép hai bài thơ vào sổ tay văn học, nét chữ con gái nghiêng nghiêng, tròn trĩnh, chân phương, mềm mại...đẹp quá! Đúng là "nét chữ nết người"!...
Đời sống văn hóa Đôn Thư - Nguồn: Phương Linh
Không rõ ai là người mang nghề vòng, nghề nón về làng Đôn Thư và nghề này có từ bao giờ. Làng Đôn Thư bây giờ, theo cơ chế mới, cũng có sự chuyển đổi tư duy nghề nghiệp. Nhưng đối với nhiều người dân, nhất là người già, phụ nữ, trẻ em, nghề vòng vẫn là "một phần tất yếu của cuộc sống", "ăn vòng, ngủ vòng", sống chết có nhau. Ở Đôn Thư, ruộng đất ít, nghề nông èo uột, ngày xưa không có nghề vòng nón thì "tháng ba, ngày tám" có mà "treo niêu". Ai quan niệm thế nào, tôi không biết, riêng tôi cứ nghĩ đơn giản, là nghề vòng, nghề nón đã có lúc giúp cho dân làng hạn chế được cái đói những khi đất nước còn khó khăn. Và sự thực nhãn tiền: ở làng Đôn Thư, có một số nhà giàu lên nhờ vòng.
Họ làm được nhà cao tầng, mua sắm được nhiều thứ tiện nghi sinh hoạt đắt tiền, phục vụ cuộc sống hiện đại, nuôi con ăn học, trưởng thành đâu ra đấy. Hay bình thường hàng ngày, tôi thấy có những cụ già, em nhỏ, tận dụng những thứ đáng lẽ bỏ đi, như tướp vòng, bụng nứa ...làm thành những sản phẩm, nhiều khi rất có tác dụng trong cuộc sống đời thường, bán ra thị trường, cũng kiếm tiền tốt. Chẳng hạn, có cụ ông tám mươi, chín mươi tuổi, vẫn thu gom tướp vòng tre, buộc chổi, một loại chổi đặc biệt, chỉ làng Đôn Thư mới có.
Một góc quê hương - Nguồn: Nguoithanhoai.vn
Loại chổi này mà quét lá, quét tướp, quét thóc, quét rơm, quét ruông ... lúc mùa màng, gặt hái, cả lúc không mùa màng gặt hái, nói chung là "quét tước", thì không loại nào sánh bằng, năm - bờ - oăn là cái chắc...Hay các cụ bà, sức khỏe đã hạn chế nhiều, các em nhỏ tranh thủ những lúc nghỉ học, lấy bụng nứa (bọng) chẻ vòng nức (dùng để cạp nón). Những việc làm đó, vừa phù hợp với lứa tuổi, lại vừa có thêm thu nhập kha khá, giúp họ gây quĩ riêng, vừa giúp thêm cho con cháu vừa phục vụ thiết thực cho cuộc sống của cá nhân hoặc làm những việc có ích cho gia đình và xã hội...
Cho nên, là dân Đôn Thư, tôi cảm thấy rất vui sướng, tự hào, kiêu hãnh vì quê hương mình có những nghề mang tính nghệ thuật đặc sắc, đặc trưng, "sánh vai" với các "cường làng nghề" trong cả nước. Đó là thứ "nghề quí đời đời truyền để lại...nhà nhà hưởng lộc được thanh nhàn". Có lẽ, khi đã được mắt thấy tai nghe những điều đặc biệt thú vị về nghề truyền thống của quê hương tôi, bạn cũng muốn được chia sẻ cùng tôi cảm xúc ấy. Tôi đã thấy thoáng hiện trên gương mặt thanh tú, rạng ngời của bạn, nụ cười tươi rói và ánh mắt hân hoan...
Bảo An - Thanh Oai