Kết nối bốn phương

Cả nhà kỹ tài làm quan (Kỳ V)

(2015/12/2 1:18) - Nguồn:

Lê Huy Trâm (1742-1802), nguyên tên cũ là Tuân, hiệu: Ứng Hiên; là danh sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Lê Huy Thân (1752-1823), nguyên tên cũ là Giáp; là quan nhà Lê trung hưng và là nhà giáo Việt Nam, là em trai của ông Lê Huy Trâm. Hai anh em là người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai.

 

Quang cảnh kỳ thi Hương năm 1897 tại Nam Định – Ảnh: Văn Suong (chụp lại từ tư liệu)

 

TUỔI THƠ

 

Tổ tiên hai Ông có nguồn gốc từ Nghệ An. Cha là Lê Huy Cảnh, đỗ Hương cống (Cử nhân) khoa Quý Dậu (1753).

Hai anh em Lê Huy rất ham học, lại được cha dạy bảo nên học rất giỏi. Năm 18 tuổi, Huy Trâm được vào học trường Quốc tử giám. Cùng học với ông có Phạm Nguyễn Du, còn Huy Thân thi đỗ Sinh đồ (tú tài) năm 19 tuổi (1771).

 

DANH TÀI

 

Tấm bằng tiến sĩ cấp cho ông Lê Huy Trâm (trên) và cha ông Trâm - Lê Nguyễn Cảnh (dưới) - Nguồn: Tư liệu Thừa Thiên Huế

 

Năm 21 tuổi,Huy Trâm thi đỗ Sinh đồ (Tú tài). Năm 1769, ông thi đỗ Hương cống (Cử nhân) lúc 27 tuổi. Trong hai kỳ thi Hội năm Ất Mùi (1775) và Mậu Tuất (1778), ông chỉ vào được tam trường. Năm Kỷ Hợi (1779), chúa Trịnh Sâm xin vua Lê Hiển Tông cho mở một khoa thi gọi là Thịnh khoa, Lê Huy Trâm và Phạm Nguyễn Du cùng đến dự. Kết quả, ông Du đỗ Hội nguyên, ông Trâm đỗ thứ 9. Song khi vào thi Đình, ông Trâm đỗ Đình Nguyên Hoàng giáp, còn ông Du cũng đỗ Hoàng giáp nhưng đứng thứ 2. Cùng đỗ khoa này có Phạm Quý Thích, là đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm ấy, Lê Huy Trâm 37 tuổi.

 

Còn Huy Thân, năm 22 tuổi, thi đỗ Hương cống (Cử nhân) khoa Giáp Ngọ (1774). Song đến kỳ thi Hội năm Ất Mùi (1775) thì ông chỉ vào đến tam trường, được bổ làm chức quan nhỏ là Hồng lô tự Tự ban (chánh cửu phẩm). Đến khoa Giáp Thìn (1784), ông dự thi lần nữa, nhưng kết quả vẫn y như trước.

 

SỰ NGHIỆP

 

Buổi triều của quan thần phong kiến - Nguồn: Văn Phú - Ảnh có tính chất minh họa

 

Lê Huy Trâm lần lượt trải các chức: Hàn lâm hiệu lý, Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoa, Trực giảng ở Quốc tử giám, Khâm sai đồng khảo ở trường thi Hội, Hàn lâm viện thị chế, Hiến sát sứ Sơn Tây, Thêm sai tri lễ phiên kiêm chức Lâm Thao Trưng phủ, Đông các Hiệu thư. Tháng 3 (âm lịch) năm 1786, ông nhận lệnh về chẩn tế ở huyện nhà. Việc xong, thăng ông làm Hàn lâm viện thị độc...

 

Năm Đinh Mùi (1787) đời vua Lê Chiêu Thống, Lê Huy Trâm xin về quê thọ tang cha. Song tháng 9 năm đó, ông phải trở lại kinh đô Thăng Long, vì lúc bấy giờ việc nước rất rối ren. Đến khi quân Tây Sơn kéo ra Bắc, vua Lê Chiêu Thống phải chạy lên Kinh Bắc, ông cùng Lê Quýnh theo phò Hoàng thái hậu và Hoàng nguyên tử (con trai trưởng của vua Lê) sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.

 

Ba anh em Vua Quang Trung nguyễn Huệ - Nguồn: Sách lịch sự Bộ giáo dục

 

Tháng 10 năm sau (1788), quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đứng đầu rầm rộ kéo sang chiếm lấy Thăng Long, đưa Lê Chiêu Thống trở lại ngai vàng. Sau đó, Lê Huy Trâm được phong làm Ứng Khê hầu, lĩnh chức Hiệp trấn Sơn Nam.

 

Cuối năm 1788, vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đem quân ra Bắc. Nghe tin, ông tập hợp được chừng vài trăm quân liền kéo đến Thăng Long để liệu bề chống đỡ. Nhưng chỉ đi đến Thanh Trì (Hà Nội), thì phần đông quân lính của ông đều bỏ trốn vì nghe thanh thế quân Tây Sơn mạnh quá. Trước tình hình này, Lê Huy Trâm bèn cải dạng đến ẩn trong nhà người học trò ở làng Bùi (tức Bùi Xá, nay thuộc xã Phong Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh).

 

Các quan trước điện - Ảnh: Văn Phú - Ảnh có tính chất minh họa

 

Đầu năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn đánh tan 29 vạn quân Thanh. Định xong Bắc Hà, vua Quang Trung truyền chỉ đòi số bề tôi cũ của nhà Lê phải ra trình diện để bổ dụng. Không tuân theo lệnh, đến đêm, Lê Huy Trâm cùng Lê Huy Thân đem gia quyến chạy lên ẩn ở làng Lưỡng Quán thuộc trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phúc). Vì sợ quân Tây Sơn dò la được, và vì phải kiếm sống, kể từ đó ông và gia đình phải đi chạy ẩn nhiều nơi khác nữa, như bến Suối ở làng Thanh Trì (nay thuộc Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), làng Can Phối, làng Phúc Sài, chùa Tây Phương...

 

Vì cớ gọi không ra, triều Tây Sơn đã ra lệnh tịch thu nhà cửa của ông ở Xã Đàn và ở Bối Khê. Ngày 30 tháng 3 năm Tân Hợi (1791), quân Tây Sơn kéo đến vây làng Phúc Sài, nhưng không bắt được bắt được ông, mà chỉ bắt được hai con trai ông (sau trốn được). Bị truy đuổi, ông lại chạy đến ẩn ở bến Suối, rồi chạy đến ở động Hương Tích. Mai danh ẩn tích, và rày đây mai đó như vậy, nên ông được người ta gọi là "cụ (hay ông) đồ già".

 

Sau, Lê Huy Trâm nghe tin chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) dấy quân ở Gia Định, và học trò ông là Đặng Trần Thường cũng đã vào đấy giúp. Ông bèn cùng 5, 6 người cựu thần nhà Lê lén vào Gia Định bái yết, định cùng hiệp sức diệt nhà Tây Sơn để mưu hưng phục cho nhà Lê ở đất Bắc Hà. Nhưng về sau ông nhận thấy chúa Nguyễn không có ý gì hưng Lê, vì vậy khi theo quân ra đến Tam Điệp (Ninh Bình), ông bèn xin về.

 

Nguyễn Ánh cầu cứu quân Pháp và Xiêm - Nguồn: Sách lịch sự Bộ giáo dục 

 

Sự nghiệp của em trai là Lê Huy Thân cũng phong trầm theo lịch sử bấy giờ. Năm Quý Sửu (1793), trở về quê mở lớp dạy học, vì bấy giờ lệnh tìm đòi của nhà Tây Sơn không còn gắt gao như trước. Năm 1802, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long có lệnh triệu ông, nhưng ông nhất định từ chối.

 

Năm 1807, lại có lệnh đòi ông ra làm Đồng khảo trường Kinh Bắc. Từ chối không được, ông bèn "mặc áo vải, tự bọc lương ăn" vào trường chấm thi. Sau khi xong việc, ông trở về quê quán tiếp tục dạy học, bởi ông "không muốn nhận tước lộc của tân triều, để giữ vẹn tiết với triều Lê". Kể từ đó, người theo học ông ngày thêm nhiều. Mỗi kỳ giảng bài và bình văn, người đến dự đông đến ba bốn trăm. Sau, số học trò ông đỗ cao có đến mấy chục người, như Hà Tôn Quyền, Phạm Vũ Dương, Nguyễn Xuân Hựu, Nguyễn Đình Lập, Nguyễn Uông...

 

CUỐI ĐỜI

 

Triều đìnhTây Sơn suy yếu (Ảnh trái) và Nguyễn Ánh - Vua Gia Long (1802 - 1945) thay thê - Nguồn: Sách lịch sử Bộ giáo dục

 

Ngày 7 tháng 2 năm Gia Long thứ nhất (1802) có chiếu chỉ phong Người anh Lê Huy Trâm là Thái hòa điện học sĩ. Trong lời chiếu đại lược nói rằng:

 

“Khanh vốn là người cựu thần, văn chương lỗi lạc, ẩn náu đợi thủa thanh bình, đã từng ứng theo cờ nghĩa nhưng rồi lại cố từ mà lui, sự thao thủ thất đáng khen ngợi. Nay buổi đầu khai thác, sự biểu dương người tốt là đầu. Vậy nên gia phong là Thái hòa điện học sĩ để tỏ lòng yêu quý.”

 

Chiếu chỉ đã ban, nhưng Lê Huy Trâm cứ viện cớ chối từ, rồi trong tháng ấy (16 tháng 2 năm 1802), ông lâm bệnh mà mất, thọ 60 tuổi. Hay tin Lê Huy Trâm qua đời, vua Gia Long sai quan đến tế, đồng thời cho hai con trai ông là Lê Huy Túc và Lê Huy Liễu được tập ấm.

 

Hiện ở thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, có nhà thờ Tiến sĩ Hoàng giáp Lê Huy Trâm, mà nhân dân thường gọi là "nhà thờ chi họ Lê".

 

Bài thơ tự viếng mình trước khi ông mất như sau:

 

Phiên âm Hán-Việt:

Sách danh ủy chí đệ tương truyền,

Khuất chỉ kim tằng nhị bách niên.

Dịch diệp tư bồi gia khánh viễn,

Lũy triều hàm dưỡng quốc ân truyền.

Vãng hành nhà tướng do tâm mục,

Thời sự na kham cự hải điền.

Trang hiếu thủ sinh hề diễm bích,

Thương kỳ nhất tiết cộng trường thiên.

Trúc Khê dịch thơ:

Sỹ tịch tên ghi tự những ngày,

Hai trăm năm lẻ đến giờ đây

Phúc nhà bồi đắp từng lâu lắm,

Ơn nước dồi dào đáng cảm thay.

Tai mắt việc xưa như hiển hiện.

Bể dâu cuộc thế ngán dần xoay.

Hiếu trung việc trước chưa đền báo,

Ôm giữ mong sao vẹn tiết này.

 

Còn người em Huy Thân, năm Minh Mạng thứ 4 (Quý Mùi, 1823), tạ thế, thọ 71 tuổi. Sinh thời, vì có đức hạnh và tài văn, nên Lê Huy Thân được người đời coi trọng. Ông cùng với anh là Lê Huy Trâm đều được gọi tôn là "Bối Khê phu tử". Sau khi Lê Huy Thân mất, Tiến sĩ Ngô Thế Vinh có thơ vịnh hoài, và Tiến sĩ Nguyễn Tư Giản có làm câu đối đề trong nhà thờ ông như sau: 

Cố quốc trung thần gia thiếu tổ,

 

Hưng triều trung sĩ thế sư tôn.

Trần Hoàng - Thanh Oai

Tags:
Các tin liên quan

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Danh nghiệp Thanh Oai
TRUONG THANH VFCC DONG DUOC PHUC HUNG LOGO THANH OAI CONG TY VAN TAI HA TAY 6 8 8
2020/10/23/anh-nen-ba9ad5da2fd929e65e4f698a6112fb67-1_23-10-2020-02-31-32.png
null.gif
BACK TO TOP